sở phòng vệ duyên hải, hải tuần, khinh tốc đỉnh, PTF, bắc phạt, vượt vĩ tuyến 17, biệt hải, kế hoạch SOG, OPLAN 34-A, hồ văn kỳ-thoại
SỞ PHÒNG VỆ DUYÊN HẢI
Thềm Sơn Hà
(trích trong HQVNCH/Phỏng Vấn 4 Vị Sĩ Quan Cao Cấp, xuất bản 2022, liên lạc nhà sách Tự Lực, Westminster, CA)
Thi hành chỉ thị của McNamara, khái niệm ban đầu về một kế hoạch hành động bí mật đã được thảo luận sớm nhất trong khoảng tháng 5/1963.
McNamara muốn kế hoạch này đặt dưới sự điều động và kiểm soát của Bộ Quốc Phòng. Và qua buổi họp trong tháng 11/1963, Giám đốc CIA John McCone đồng ý với McNamara.
Tháng 12/1963, McNamara vào gặp Tổng thống Johnson để trình bày và thuyết phục chấp thuận giải pháp của ông.
Ngày 24/01/1964 Tổng thống Lyndon B. Johnson chấp thuận OPLAN-34A thay thế OPLAN-34 của William Colby.
Qua việc thực hành kế hoạch MACV OPLAN-34A chống lại miền Bắc bằng cách mở ra các cuộc tấn công chớp nhoáng rồi rút về (hit-and-run) như là thông điệp gởi đến giới lãnh đạo miền Bắc là họ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu họ tiếp tục hỗ trợ cuộc nổi dậy trong Miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra cũng có mục đích gây mầm móng tạo sự bất mãn trong quần chúng để có thể phát triển "phong trào giải phóng dân tộc" ở miền Bắc.
Ngay sau đó Bộ QP giao phó trách nhiệm thi hành OPLAN-34A cho Đại tướng Harkins Tư lệnh Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự HK tại Việt Nam (COMUSMACV).
Tiếp theo COMUSMACV thành lập Phòng Hoạt động Đặc biệt (SOG_Special Operations Group) sau đó đổi tên thành Phòng Nghiên cứu và Quan sát (SOG_ Studies and Observations Group) với nhiệm vụ thực hiện và tăng cường chương trình quấy rối, đánh lạc hướng, gây áp lực chính trị, bắt tù nhân, phá hủy cơ sở, thu thập tình báo, phát động tuyên truyền và chuyển hướng nguồn lực chống lại Cộng sản Bắc Việt.
Các hoạt động chính trong kế hoạch 34A gồm có:
1.- Phi cơ và chuyên chở bằng phi cơ: phá hủy với quy mô nhỏ, thu thập tình báo, ngăn chặn đường giây liên lạc, hoạt động chiến tranh tâm lý có giới hạn.
2.- Đường biển: đột kích các cơ sở, căn cứ ngư lôi đĩnh Swatow, bắn phá các căn cứ trên bờ và thăm dò.
3.- Tâm lý: phân tích phản ứng của CSBV và lợi thế để tận dụng trong lần tiếp theo. Tiếp tục nghiên cứu và phổ biến đến các nhóm đối tượng và bộ máy chính phủ.
4.- Tình báo: được thu thập theo thứ tự của trận chiến và vị trí của các cơ sở quân sự được thiết lập ở Lào và Bắc Việt. Mục tiêu sau khi phân tích được cung cấp cho Sư đoàn 2 Không quân HK để hỗ trợ cho các cuộc không kích trên 2 xứ đó.
Về phần hoạt động biển, SOG lập ra Ban Nghiên cứu Đường biển (Maritime Studies Branch_MSB) ám danh OP-31 chịu trách nhiệm chỉ đạo Nhóm Hoạt động Biển (Maritime Operations Group_MOP) còn có tên ngoài mặt là Phòng Cố vấn Hải quân (NAD) Đà Nẵng.
CÔNG TÁC DO CIA ĐẢM TRÁCH TỪ 1961-1964
Cũng cần nói qua về các chuyến công tác sử dụng ghe Nautilus và PCF trước khi Sở Phòng Vệ Duyên Hải (Sở PVDH) được thành lập.
Từ năm 1961 cho đến tháng 1 năm 1964 đã có những chuyến xâm nhập vượt vĩ tuyến 17 bằng loại ghe được đặt tên là Nautilus. Các công tác này thuộc thẩm quyền CIA.
Các chuyến do CIA lần đầu tiên sử dụng PCF với thủy thủ đoàn là lính đánh thuê mới vừa tuyển dụng thực hiện trong tháng 11/1963 xâm nhập khu vực Quảng Khê, chuyến tiếp theo trong tháng 12/1963 và chuyến cuối cùng ngày 14/01/1964 sử dụng 2 PCF, 1 chiếc chở toán Biệt kích xâm nhập khu vực Đồng Hới, chiếc còn lại chở theo toán Người nhái HQVN xâm nhập Cửa Ròn. Thông thường khi gần đến vị trí, ghe Nautilus hoặc PCF thả các toán xuống bè cao su, thi hành công tác xong họ chèo trở ra lên ghe hoặc tàu.
Và đây là chuyến công tác vượt vĩ tuyến lần cuối cùng của PCF, các chuyến công tác tiếp nối sẽ được PTF thay thế.
Có 3 loại công tác được giao phó cho Sở PVDH:
1.- Ngăn chặn MINT (Marine Interdiction): mục đích ngăn chặn các tàu thuyền có trọng tải nhẹ. Lúc đầu JCS chấp thuận lên đến vĩ tuyến 20, về sau CINCPAC giới hạn đến 19°30.
PTF có quyền bắt ngừng lại, lên và khám xét tàu thuyền di chuyển trong khu vực tuần tiễu hoặc trên đường đến và đi. Nếu tàu thuyền chuyên chở quân dụng, hàng hóa yểm trợ cho quân đội hay có khả năng tương tự tùy theo tình trạng chiến thuật sẽ bị phá hủy, làm cho bất khiển dụng hay tịch thu mang về.
Ngoài ra lựa chọn để bắt giữ một số người trên ghe tàu cho mục đích khai thác tình báo và tâm lý.
2.- Thu thập tình báo LOKI: công tác này bổ túc cho công tác MINT.
Hoạt động trong khu vực mà MINT không được phép. Do vậy tình báo thu thập được sẽ khác hơn. PTF thi hành thủ tục giống như công tác MINT, tuy nhiên người trên tàu sẽ bị tra hỏi ngay tại chỗ, người chứng tỏ hiểu biết tình hình có thể cung cấp tin tức có giá trị về tình báo sẽ được chọn giữ lại để tiếp tục khai thác sâu rộng hơn. Hàng hóa có giá trị tình báo bị tịch thu. Nếu tàu thuyền chuyên chở quân dụng, hay có khả năng tương tự có thể bị phá hủy.
TL/LLHK/TBD (CINCPAC) được ủy quyền chấp thuận loại công tác này từ tháng 1/1965 không cần thông
Cũng nằm trong công tác LOKI, ám danh PLOWMAN phân biệt rõ hơn.
Có 3 nguồn cung cấp báo cáo tình báo từ công tác PLOWMAN.
a.- khai thác từ các khu vực duyên hải thuộc các tỉnh ven biển miền Bắc do các toán hành động thực hiện trong lúc xâm nhập.
b.- khai thác từ các cuộc thẩm vấn thủy thủ đoàn PTF sau mỗi chuyến công tác. Các chi tiết do sự quan sát chẳng hạn vị trí các khẩu súng từ bờ bắn ra, các loại tàu họ đã gặp, các ngư phủ họ bắt giữ nói những gì khi bị họ tra hỏi …..
c.- khai thác từ việc tra hỏi các tù nhân tại trại DODO ở Paradise Island (Cù Lao Chàm).
Tháng 10/1966 một sĩ quan tình báo HK biết tiếng Việt được gởi đến trại với nhiệm vụ giám sát để cố gắng thu thập tin tức tình báo liên quan đến việc tra hỏi các người bị bắt giữ trên ghe hay do các toán Biệt hải bắt giữ từ trên bờ mang ra tàu.
Nhiệm vụ này do NAD đảm trách, phúc trình sẽ được gởi đến các cơ quan liên hệ.
3.- Đột kích lên bờ (CADO) công tác đưa các toán hành động (Hải kích, Biệt hải, TQLC, Bộ binh, dân sự) đã được huấn luyện lên bờ rồi rút lui tức khắc. Thi hành các nhiệm vụ sau:
- tình báo.
- bắt tù nhân và tịch thu tài liệu.
- phân phối tài liệu Tâm lý chiến, quà và radio.
- phá hủy các cơ sở đã lựa chọn.
Công tác này thường dành ưu tiên cho các mục tiêu có xác suất tương đối cao mang lại tin tình báo có giá trị bất ngờ.
Về sau có 2 ám danh cũng nằm trong công tác CADO nhưng để phân biệt rõ hơn:
- DRIFT: phân phối các gói quà và radio trên bờ và ngoài biển.
- SWALLOW: các nhóm đột kích trên PTF và PCF có nhiệm vụ bắt giữ người sống trong các khu vực hoang vắng để tuyên truyền và khai thác tình báo.
Tháng 3/1965 JCS ủy quyền cho CINCPAC chấp thuận và thi hành các công tác này.
••• Thẩm quyền chấp thuận.
Tháng 6/1965, CINCPAC được quyền cho phép PTF thi hành công tác quấy rối và ngăn chặn trong khu vực Hòn Cọp hay đảo Cồn Cỏ (vị trí 17°10'N và 107°21'E) theo ý mình.
Tháng 7/1965, JCS cho phép PTF ra lệnh ghe, tàu ngừng lại và lên khám xét.
Tháng 7/1965 CINCPAC được ủy quyền cho phép PTF trên đường trở về - nếu thi hành công tác tâm lý và tình báo không thành công- được quyền sử dụng hải pháo để quấy rối và ngăn chặn các mục tiêu quân sự như radar mũi Lay, radar Mạch Nước, radar mũi Vịnh Sơn, các trạm quan sát Thường Luật, Đồng Hới. Lý Hòa, Thanh Yến, mũi Ròn, mũi Đao và đồn an ninh Ấp Tân Dinh.
- Và sau cùng, tháng 11/1965, CINCPAC được quyền sử dụng PTF ngăn chặn tàu thuyền lên đến vĩ tuyến 20°N và sử dụng súng cối 81 ly để rải truyền đơn tuyên truyền.
••• Phối hợp và soạn thảo lệnh hành quân.
Mục tiêu cho các chuyến công tác trong năm đầu tiên được chấp thuận ở cấp cao nhất trong chánh phủ HK và cấp trên có quyền yêu cầu cấp dưới soạn thảo kế hoạch như ý muốn cho các chuyến công tác.
- COMUSMACV gửi chương trình 30 ngày để phê duyệt bởi CINCPAC, JCS và thẩm quyền cao hơn.
- Chương trình do Washington chấp thuận được JCS gởi đến COMUSMACV đề soạn kế hoạch.
- COMUSMACV sau đó sẽ trình lên kế hoạch chi tiết cho năm công tác từ chương trình 30 ngày để CINCPAC, JCS và thẩm quyền cao hơn chấp thuận cho thi hành.
- Trừ khi có chỉ thị khác, COMUSMACV với sự phối hợp với Đại sứ Hoa Kỳ sẽ đưa ra quyết định sau cùng về các chuyến công tác.
Tuy nhiên 24 giờ trước khi bắt đầu công tác, COMUSMACV phải báo cáo lên JCS và CINCPAC.
Tháng 3/1967, CINCPAC được ủy quyền chấp thuận công tác có khái niệm tương tự đã được chấp thuận trước đó ở cấp độ Washington. Tuy nhiên 12 giờ trước khi có ý định thi hành, SOG phải báo cáo lên CINCPAC, JCS để họ có cơ hội cuối cùng hủy bỏ lệnh công tác.
Mặc dù trên nguyên tắc về phía Việt nam vẫn có các cơ quan được thiết lập hàng ngang với các cơ quan HK và Sở PVDH được giao trách nhiệm soạn thảo các lệnh công tác thường lệ, tuy nhiên đối tác HK vẫn duy trì quyền chỉ huy hành quân và chi phối hướng dẫn soạn thảo kế hoạch (ở mức độ thỏa mản chỉ thị và hạn chế từ Washington).
Và sau cùng kế hoạch hành quân vẫn phải chuyển qua CINCPAC để chấp thuận mà không phải là Nha Kỹ thuật hay Bộ TTM/QLVNCH.
••• Nhận xét về hệ thống chỉ huy
Qua sơ đồ, Nha Kỹ Thuật không có Ban đại diện Hải quân để cố vấn về hoạt động biển ‘Nha Kỹ thuật không có toán hải quân vì có xung đột nội bộ giữa Bộ binh và Hải quân. Người chỉ huy Nha Kỹ thuật là Đại tá bộ binh, ông này không thích Hải quân. Trong một thời gian ông ấy có một ít SQHQ ở Nha Kỹ thuật, nhưng cuối cùng loại trừ họ. Trên thực tế chúng ta không có một tổ chức song song.’ (nhận xét của HQ Trung tá Normal Olson)
••• Quy luật thi hành nhiệm vụ
1.- Tù nhân: có thể được trả về trong hải phận Bắc Việt hay thả ra trong khi thi hành công tác.
2.- Kiểm soát khai hỏa: các PTF được quyền khai hỏa vào các mục tiêu quân sự trên vùng duyên hải Bắc Việt để tự vệ khi sự an toàn của chiến đĩnh và toán hành động bị đe dọa.
PTF được quyền khai hỏa chống lại phi cơ Bắc Việt và tàu thủy để tự vệ và khi cần bảo đảm sự thành công của chuyến công tác.
3.- Khu vực hạn chế: để làm giảm khả năng đụng độ với phi cơ và tàu tuần Trung Cộng, PTF không thể đến gần đảo Hải Nam dưới 40 hải lý.
Vĩ tuyến 19°30’N là giới hạn, chỉ vượt quá trong trường hợp ngoại lệ. Tháng 8/1967 giới hạn này được tăng lên là 20°N.
4.- Nhân viên: nhân viên Hoa Kỳ không được phép lên tàu trong các chuyến công tác quá vĩ tuyến 17°N.
5.- Yểm trợ của Hoa Kỳ trên không và trên mặt
PTF của LLHT đang gánh chịu tổn thất nhân mạng đáng kể cũng có thể liên lạc lực lượng trên biển của HQHK để được giúp đỡ y tế và có thể đến gặp họ khi không còn thấy đất liền.
6.- Khám xét: thi hành công tác, LLHT thỉnh thoảng gặp các tàu không phải là tàu của Bắc Việt hoặc tàu của Hoa Kỳ, do vậy họ phải hết sức cố gắng để bảo đảm là chỉ khám xét tàu của Bắc Việt. Tính đến cuối năm 1968 quân số của NAD gồm 16 SQ và 39 đoàn viên (toán SEAL có 1 SQ và 9 đoàn viên). Toán Bảo trì Lưu động (MST) có 4 SQ và 34 đoàn viên.
••• Mô tả nhiệm vụ
A.- Nhiệm vụ toán PTF
Tất cả các chuyến công tác trên biển phía bắc vĩ tuyến 17°N đều do người Việt thực hiện dưới quyền quản trị hành chánh của Sở PVDH, sử dụng PTF không để lộ nguồn gốc do HQHK chuyển nhượng cho chánh phủ VNCH (văn kiện ký ngày 9 tháng 10 năm 1965_trong phần tham khảo).
1.- Mỗi chuyến công tác gồm có 2 PTF loại NASTY hay 3 chiếc nếu hoạt động trên vĩ độ 19° hay thi hành công tác xâm nhập. Khi hoạt động từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 19, PTF giữ hướng đã xác định từ trước, ngoài tầm các đài radar duyên hải, đến khu vực hoạt động đã được chỉ định.
Khi đến vùng, PTF không bị giới hạn trong việc di chuyển. Không có sự yểm trợ nào khác từ bên ngoài.
Vượt quá vĩ tuyến 19°N, PTF bắt buộc phải theo hướng và lịch trình đã được định trước trong suốt chuyến công tác. Sự yểm trợ thường do Đệ thất Hạm đội cung cấp.
2.- Thủy thủ đoàn PTF và các toán CADO tất cả đều là người Việt. Họ được thuyết trình trước chuyến công tác và được thẩm vấn sau khi trở về căn cứ bởi Ban Cố vấn Hải quân HK và Sở PVDH.
Tù nhân được mang về bị bịt mắt, sau đó đưa họ xuống ghe hoặc tàu chuyển vận loại nhỏ chở ra Cù Lao Chàm. Thủ tục ngược lại khi chở họ thả về miến Bắc.
Một số tù nhân được đào tạo trong trại tù để trở thành người hoạt động ngầm khi trở về miền Bắc.
3.- Khi PTF bắt đầu công tác ngoài Bắc, quyền chỉ huy hành quân được chuyển sang cơ quan MACV-SOG ở Sài Gòn.
4.- Thời hạn công tác từ 20 đến 30 giờ tùy theo thời gian đến khu vực hoạt động. Thông thường thời gian ở khu vực hoạt động mất từ 6 giờ 30 phút đến 7 giờ, ngoại trừ khi hoạt động trên vĩ tuyến 20°N các PTF bắt buộc phải giữ hải trình đã được xác định từ trước.
5.- LLHT chỉ được quyền yêu cầu lực lượng HK giúp đỡ trong trường hơp khẩn cấp, chẳng hạn bị lực lượng địch áp đảo, cần trợ giúp y tế và nếu tàu bị chìm. Yêu cầu được gởi đến SOG và ngay sau đó được chuyển tiếp đến Sĩ quan liên lạc của Đệ thất Hạm đội ở phi trường Tân Sơn Nhứt để chuyển về Đệ thất Hạm đội.
B.- Nhiệm vụ Chỉ huy trưởng Sở PVDH.
Chỉ huy trưởng Sở PVDH lập kế hoạch, điều hợp và thực hiện các công tác hoạt động hàng hải đặc biệt do Nha Kỹ thuật chỉ đạo.
Chuẩn bị kế hoạch phối hợp HQHK-VN dự phòng cho các công tác đặc biệt hoặc các hoạt động khẩn cấp đặc biệt theo chỉ dẫn của Nha Kỹ thuật. Phát triển khả năng để cung cấp yểm trợ cho Hải quân hoàn thành các kế hoạch dự phòng hoặc khẩn cấp đặc biệt.
Huấn luyện các lực lượng Hải quân để thi hành trách nhiệm được giao phó.
Hỗ trợ và sửa chữa tàu, tàu nhỏ và ghe dùng trong các hoạt động đặc biệt trên biển.
VỀ NHÂN VIÊN.
Với sự cố vấn của Sĩ quan đặc trách NAD, Chỉ huy trưởng Sở PVDH lập kế hoạch, phối hợp và thực hiện các công tác và nhiệm vụ đặc biệt; phối hợp hoạt động với các đơn vị bên ngoài; ban hành hướng dẫn chính sách, quản trị và thực hiện quyền chỉ huy đối với việc điều hành nội bộ căn cứ Đà Nẵng gồm cơ sở vật chất và nhân sự (quân nhân VN, dân sự và lính thuê).
Trong tình huống bất thường này của các hoạt động hỗn hợp, phía Việt Nam đảm nhận nhiệm vụ tác chiến, đối tác Hoa Kỳ duy trì kiểm soát hoạt động và chi phối hướng dẫn lập kế hoạch.
Mối quan hệ hợp tác và tương kính là điều cần thiết giữa sĩ quan phụ trách NAD và cấp chỉ huy Sở PVDH và nhân viên của họ để đảm bảo sự đào tạo, sự sẵn sàng và hiệu quả trong hoạt động.
LỰC LƯỢNG HẢI TUẦN
1.- Tổ chức.
LLHT thành hình trong khoảng từ tháng hai đến tháng 3 năm 1964 với nhân viên HK và VN chung nhau làm việc, nhưng dưới hai hệ thống chỉ huy khác nhau.
Các hoạt động hải tuần phía Bắc vĩ tuyến 17 đều do người Việt điều khiển dưới quyền quản trị về hành chánh của Sở PVDH. Các PTF đều không để lộ nguồn gốc.
2.- Nhiệm vụ: lực lượng phối hợp giữa HK-VN có trách nhiệm thi hành các hoạt động bí mật chống lại Bắc Việt với mục đích:
- hủy diệt các mục tiêu quân sự đã được lựa chọn.
- ngăn chặn tiếp vận bằng đường thủy
- thu thập tình báo, gồm luôn việc bắt và giam giữ dân miền Bắc để khai thác tin tức tình báo
3.- Quân số.
a.- Toán hành động (Action Teams): dùng để ám chỉ nhóm người được gởi theo PTF để thi hành các công tác đã được giao phó. Từ PTF họ xuống bè cao su chèo vô bờ, khi xong công tác họ lên bè chèo trở ra tàu. Có 4 toán được đặt tên để dễ phân biệt.
- Toán Vega: các toán Hải kích (Sea Commando Team) được huấn luyện bởi SEALs của HK.
- Toán Romulus: lấy từ TQLC
- Toán Nimbus lấy từ Bộ binh
- Toán Cumulus lấy từ dân sự là những người đã từng hoạt động trong chương trình do CIA điều khiển (ghe Nautilus và PCF).
Quân số trong tháng 6/1965 như sau: 13 Hải kích có bằng nhảy dù/ 27 Biệt hải/ 29 TQLC/ 20 Nùng/ 31 Bộ binh/ 28 Dân sự có bằng Nhảy dù trong số này có người Trung Hoa. Ngoài ra có 120 Bộ binh đang được huấn luyện.
Như thế thuở ban đầu toán hành động gồm các đơn vị khác biệt nhau từ các quân binh chủng. Và quân số Biệt hải tính đến tháng 6/1965 chỉ có 27 người. Theo thời gian, nhiều khóa huấn luyện Biệt hải được mở ra, số Biệt hải tăng lên, Năm 1969, công tác ngoài Bắc bị ngưng lại, vì thế trong tháng 9 năm 1969 một đại đội Biệt hải 100 người đã được gởi xuống Năm Căn.
b.- Toán PTF: ngay khi thành lập, 45 nhân viên Hải quân được đặt dưới quyền chỉ huy của Nha Kỹ thuật, ngoài ra NAD khẩn cấp yêu cầu HQ cung cấp thêm 100 người để được huấn luyện sử dụng 2 PTF đầu tiên. Đầu năm 1965, HK thông báo Nha Kỹ thuật họ cần thêm 90 người cho 6 PTF sẽ được gởi đến.
Có 11 thủy thủ đoàn được thành lập để luân phiên thi hành các chuyến công tác.
Lính Hải quân được tuyển chọn là những người có điểm phê trên trung bình và hưởng lương cao hơn.
3.- Trang bị.
• PCF: 3 chiếc đầu tiên có mặt trong khoảng cuối năm 1963.
•PTF:
••• Do Na Uy đóng
Tháng 12/1962, HQHK nhận PTF-3 đầu tiên từ Na Uy sau đó nhân thêm PTF-4.
- Giữa năm 1963, HQHK tuyên bố sau một thời gian đình động chiếc PTF-1 và PTF-2 (hoạt động chỉ trong thời gian ngắn trong năm 1950 và 1951) do HK đóng và 2 chiếc PTF-3 và 4 loại NASTY do Na Uy đóng gia nhập hạm đội HQHK thay thế loại PT (Motor Torpedo Boat) đã được sử dụng trong Thế Chiến II.
Về kích thước PTF-1 dài 89 ft, PTF-2 dài 94 ft, máy chạy bằng xăng trong. (All Hands June_1964)
Do vậy dù vẫn giữ tên tắt là PTF nhưng lại được gọi là Patrol Fast Boat, tiếng Việt gọi là Khinh tốc đĩnh.
Ngày 18-19/12/1963, sau buổi họp ở Subic Bay, HQHK quyết định tháo gỡ khẩu đại bác 40 ly trước mũi và các trang bị không cần thiết trên PTF-3 và 4, ngoài ra gắn thêm bồn dầu để hoạt động xa hơn (tầm hoạt động có thể lên đến tận Hải Phòng).
Ngay sau đó khẩu đại bác 40 ly được thay thế bằng đại liên 50 và súng cối 81 ly.
PTF-3 và 4 được chở đến Đà Nẵng ngày 22/02/1964, trong lúc mang ra khỏi tàu PTF-3 bị tai nạn, thân tàu bị hư hại phải mang về Subic Bay sửa chửa khẩn cấp, đến cuối tháng 2 trở lại Đà Nẵng
Tháng 4/1964 PTF-1 và 2 cùng với một cần nổi, một ụ nổi (APDL-23) và một LCM-3 (dùng để đẩy) có mặt ở Đà Nẵng. Khác với loại Nasty, PTF-1 và PTF-2 vẫn giữ khẩu đại bác 40 ly trước mũi, gắn thêm 2 đại liên 50 hai bên hông giữa tàu (thay vì đại bác 20 ly như PTF Nasty).
Tuy nhiên không hữu hiệu vì tầm hoạt động ngắn và sử dụng xăng nên sau đó được thay thế và gởi về HK.
- tháng 5, PTF-5 và 6
- tháng 7 và 8/1965, thêm 4 chiếc
- đầu năm 1966 thêm 3 chiếc.
Tổng cộng có 13 PTF mang từ số 3 đến số 12 và từ 14 đến 16 do Na Uy đóng đã được gởi và sử dụng ở Việt Nam. Đây là loại tàu rất tinh vi và tân tiến, giá mỗi chiếc là 1,5 triệu đô.
••• Do Hoa Kỳ đóng.
Tình trạng của các chiến đĩnh và nhân viên trong tháng 11 năm 1968:
- PTF: 11 chiếc mang số 3, 5, 6, 7, 10, 11, 12, 23, 24, 25, 26.
- PCF: 3 chiếc, sử dụng trong công tác yểm trợ tiếp vận địa phương.
- 12 thủy thủ đoàn PTF.
- 3 thủy thủ đoàn PCF.
- 4 toán đổ bộ (78 người)
4.- Căn cứ.
Tháng 1/1964, Bộ chỉ huy Sở PVDH và NAD cùng nằm trong tòa nhà Voi Trắng (White Elephant) ở Đà Nẵng. Nhân viên NAD ở trong trại ngoài thị xã, ngoại trừ cố vấn SEAL và RECON ở trong khu doanh trại Mỹ Khê trước mặt bờ biển.
Thêm vào đó một đại đội lính Nùng và đại đội Lực lượng Đặc biệt (CIDG_Civilian Irregular Defense Group) cũng ở Mỹ Khê.
Camp Fay: Tháng 5/1965, Bộ chỉ huy Sở PVDH, NAD dời vô Camp Fay mới vừa cất xong, nằm dưới chân Núi Khỉ (Monkey Mountain). Nhân viên NAD ở trại ngoài Đà Nẵng cũng dời vô Camp Fay, số lính canh gác doanh trại giảm còn 44 người.
Lower Base: tháng 7/1965, NAD lại dời xuống cơ sở gần biển Lower Base. Căn cứ nằm về hướng Tây Bắc Camp Fay, là nơi đặt Bộ chỉ huy hành quân của Sở PVDH và NAD. Có doanh trại cho ban sửa chửa và bảo trì. Vì khoảng cách khá xa 3 hl, nên phải cần đến 89 quân xa để chuyên chở nhân viên qua lại giữa CampFay và Lower Base.
Có 4 cầu tàu cho 14 PTF (trên cấp số), 3 PCF, 2 LCM, một ụ nổi và 1 cần trục nổi, bồn chứa nhiên liệu.
Camp Black Rock: có thể chứa đến 200 người là doanh trại, nhà ăn, nơi chứa dụng cụ và là nơi làm việc của toán SEAL và khu vực huấn luyện RECON (Trinh Sát) gồm cả toán SEAL 1 của HQHK và nhân viên RECON của TQLC/HK.
Bốn toán hành động người Việt được huấn luyện để thi hành các công tác xâm nhập (CADO), mỗi toán từ 15-20 người ở trong khu vực bờ biển phía Đông bán đảo Đà Nẵng có diện tích 50 mẫu và 18 cơ sở. Các cơ sở này gồm có luôn chổ ở cho huấn luyện viên HK và các toán hành động, có nơi chứa dù, phòng ăn, chổ ở cho lính LLĐB gác trại.
Các trại khác: các trại bổ sung trong cùng địa điểm có Trại Trần Hưng Đạo cung cấp chỗ ăn, ở cho khoảng 200 nhân viên chiến đĩnh và ban tham mưu, Trại lính Nùng (còn có tên là Tiểu đoàn An ninh) là nơi chứa lính đảm trách an ninh căn cứ, Cảnh sát Đặc biệt và LLĐB.
Kho chứa đạn dược nằm cạnh Spanish Beach. Ba bãi biển còn lại chỉ do NAD và CSS sử dụng, trong đó có 1 bãi biển còn được sử dụng như là xạ trường.
5.- Huấn luyện.
- Tổng quát: trong nhiệm vụ xâm nhập miền Bắc tất cả các nhân viên trên PTF từ cấp chỉ huy, thủy thủ điều khiển con tàu, nhân viên trọng pháo phụ trách các ổ súng, toán hành động (Action Team) đổ bộ và đột kích các cơ sở trên bờ đều phải thành thạo với nhiệm sở của mình.
Vì thế toán Yểm trợ Lưu động Hải quân thuộc NAD đã huấn luyện và yểm trợ cho các nhân viên thuộc cơ quan đối tác của họ là LLHT có cùng chuyên nghiệp.
Riêng về các toán hành động do SEAL và TQLC/HK huấn luyện tại Camp Black Rock. Tháng 1/1965 trại Huấn luyện Long Thành tổ chức khóa Nhảy dù cho 31 học viên Hải kích HQVN.
- Lớp huấn luyện 15 Biệt hải được tổ chức từ tháng 10-11/1971, số toán Biệt hải lên đến 5 toán.
- Kỹ thuật: Về phần huấn luyện kỹ thuật, vì thiếu nhân viên có kinh nghiệm hàng hải và cơ khí nên HQVN đã gặp khó khăn bổ nhiệm nhân viên có khả năng để được huấn luyện sử dụng PTF. Tuy nhiên khả năng đáp ứng của các nhân viên được lựa chọn đối với việc huấn luyện tương đối tốt trong một hoàn cảnh bất lợi. Ngoài ra PTF loại Nasty là loại tàu tinh vi với hệ thống đẩy phức tạp ngay cả nhân viên HQHK có kinh nghiệm từ 10-12 năm đôi lúc cũng gặp trở ngại.
Công tác huấn luyện chuyên môn về cơ khí cho SQ và thủy thủ đoàn Việt Nam bắt đầu tháng 10/1965 với mục đích tối hậu là chuyển giao trách nhiệm bảo trì và sửa chửa PTF cho HQVN.
6.- Sửa chữa và bảo trì.
Về kỹ thuật, toán Yểm trợ Lưu động (MST_Mobile Support Team) gồm các nhân viên cơ khí đã được huấn luyện từ hảng chế tạo động cơ D. Napier&Son ở Luân Đôn, Anh và là thủy thủ đoàn 4 PTF đầu tiên đến Đà Nẵng có trách nhiệm cung cấp:
- Toán Huấn luyện điều khiển PTF (Boat Training Team) để hướng dẫn, đào tạo cho thủy thủ đoàn người Việt. Toán huấn luyện này rất có hiệu quả, từng người được huấn luyện riêng rẽ về vận chuyển, sử dụng hải pháo và bảo trì. Kinh nghiệm và khả năng thích ứng của nhân viên được bổ nhiệm ảnh hưởng đến các giai đoạn khác nhau của việc huấn luyện căn bản với khoảng thời gian huấn luyện từ 6 tuần đến 3 tháng.
- Toán Sửa chữa và Bảo trì (Repair and Maintenance Team) để phục vụ và sửa chữa chiến đĩnh và để hỗ trợ HQVN tiến đến việc phát triển khả năng bảo trì tự lập.
Trong thời gian này các cơ xưởng ở Việt Nam chưa đủ khả năng, vì vậy các công tác sửa chữa quan trọng hay đại kỳ phải gởi về Subic Bay, Phi Luật Tân.
- Tương tự HQHK, tháng 4/1967 toán yểm trợ lưu động (MST) Việt Nam được thành lập để nhận lãnh trách nhiệm bảo trì và sửa chữa.
Tháng 9/1968, toán có 73 người, một số nhân viên cơ khí được tuyển chọn dự khóa huấn luyện tại Hải quân Công xưởng HQHK ở Subic Bay về đại kỳ máy móc và thân tàu.
Tháng 7/1969 có 30 nhân viên ngành cơ và điện khí đã trải qua lớp huấn luyện tại chỗ tại Subic Bay, toán MST/VN còn lại 52 người.
Hai lớp bảo trì máy Napier Deltic được tổ chức ở Subic Bay từ tháng 9-12/1971. Toán kỹ thuật Việt Nam hoàn toàn có khả năng sửa chửa và bảo trì máy Napier Deltic, ngoại trừ công tác đại kỳ phải gởi về Subic Bay, Phi Luật Tân. Thông thường vào mùa gió mùa Đông Bắc, PTF được gởi qua Subic Bay để đại kỳ vì thời tiết xấu PTF ít đi công tác.
7.- Truyền tin.
Một giờ trước khi khởi hành, tất cả các dụng cụ truyền tin đều được thử và điều chỉnh đạt đến hiệu suất cao nhất. Báo cáo lên SQ thẩm quyền và SQ truyền tin NAD kết quả.
Liên lạc giữa PTF sẽ được thực hiện trên máy AN/ARC-27 và TR-20 và chỉ được sử dụng tối thiểu cho nhu cầu chiến thuật (thời gian đầu sử dụng máy AN/GRC-94 và máy AN/URC-46). Liên lạc giữa PTF và toán hành động dùng máy TR-20 và PRC-25.
Liên lạc với căn cứ sử dụng máy RS-1 hoặc HE-107 trong các trường hợp:
- một giờ sau khi rời bến.
- đưa toán hành động xuống bè.
- đón toán hành động về tàu. Báo cáo kết quả.
- báo cáo sự bất thường.
NAD sẽ liên tục giữ tần số liên lạc với PTF từ lúc lên đường cho đến lúc trở về. (tham khảo văn thư ngày 19/7/1969)
8.- Hoạt động.
Qua nhiều năm, khi gió mùa Đông Bắc đến, hầu như tất cả các hoạt động ngưng lại từ tháng 11 cho đến tháng Ba vì lý do thời tiết. Thời tiết là trở ngại lớn nhất, nhiều chuyến công tác phải bị hủy bỏ
- Năm 1964 mặc dù SOG đã được thành lập từ ngày 24/01/1964, tuy nhiên khả năng hoạt động trên biển bị hạn chế vì cuộc chính biến ngày 30/01/1964 khi tướng Nguyễn Khánh lật đỗ tướng Dương Văn Minh.
Mặc dù giai đoạn I của kế hoạch OPLAN-34A đã được Hoa Thịnh Đốn chấp thuận thi hành kể từ ngày 01/02/1964 nhưng từ phía Việt Nam vẫn không có phản ứng tức thời hay lên tiếng ủng hộ.
Không muốn kế hoạch bị đình trệ, sau khi thay thế CIA, trong tháng 2 và 3, cơ quan SOG tiếp tục sử dụng PCF chở theo người nhái của HQVN với mục đích phá hoại ngư lôi đĩnh Swatow đang nằm tại cầu tàu ở căn cứ Hải quân Quảng Khê. Cả hai chuyến đều không mang lại kết quả, Swatow không có ở trong bến, lính tuần có mặt dọc theo bờ, gió mạnh làm lật bè chở Người nhái nhưng họ lên được PCF. Tuy nhiên chuyến công tác tháng 3 không may mắn có 4 Người nhái bị bắt.
Dù thất bại, nhưng vẫn lạc quan, SOG tổ chức hai chuyến công tác tiếp theo với mục tiêu phá hoại cầu ở hướng Bắc Quảng Khê. Cả hai chuyến đều thất bại, mỗi chuyến mất hai Người nhái.
(The Way We Do Things _Thomas L. Ahern).
Từ tháng 4/1964, PTF lần đầu tiên bắt đầu các chuyến công tác có các toán Biệt hải tháp tùng theo. SQ và thủy thủ HQVN trên PTF đã thành tựu một cách đáng kể về tiến bộ lẫn kinh nghiệm. Tính đến 31/12/1964 đã có tất cả 32 chuyến với nhiệm vụ phá hủy các đồn giữ an ninh, cầu, trại lính trên đảo và đài radar.
Ngoài ra có 12 lần bắn phá dọc theo bờ biển gây hư hại các cơ sở phòng thủ, trại lính, các tòa nhà các cơ sở yểm trợ, tịch thu 3 ghe, bắt giữ 27 tù nhân mang về Nam để khai thác về tình báo.
Vào ngày 27 tháng 5, Lực lượng Hải tuần hoạt động đã đạt được thành công đáng kể đầu tiên với việc bắt giữ một ghe và thẩm vấn 6 ngư phủ miền Bắc.
Tuy nhiên khoảng giữa năm 1964, công tác đưa Biệt kích lên bờ và đột kích không hữu hiệu và rất nguy hiểm vì lực lượng phòng thủ duyên hải Bắc Việt đã nhanh chóng gia tăng khả năng kháng cự trước các hoạt động đe dọa an ninh bờ biển và các ghe thuyền đánh cá ngoài khơi.
Thay thế vào đó PTF chuyển sang hoạt động tâm lý chiến như sử dụng súng cối 81 ly rãi truyền đơn và phân phối các gói quà đi kèm theo các chương trình phát thanh tuyên truyền và huấn luyện thuần thục các tù nhân Bắc Việt trước khi trả họ về lại miền Bắc.
Công tác tâm lý chiến bắt đầu tháng 2 năm 1964 với việc phát truyền đơn tuyên truyền, qua tháng 3 gởi thư, tháng 4 phân phối các gói quà trong đó có radio để người dân có thể nghe các chương trình phát thanh từ miền Nam. Tháng 4/1964 chương trình Tiếng Nói Tự Do phát sóng hướng về miền Bắc bắt đầu hoạt động. Và tiếp theo là các chương trình phát thanh Mẹ Việt Nam và Gươm Thiêng Ái Quốc.
Tổng kết trong năm 1964 phát tặng 20.000 gói quà và phân phối 41 triệu truyền đơn,
Đến tháng 6/1964, sự phối hợp giữa NAD/CSS bắt đầu cải thiện, thủy thủ đoàn PTF đã đạt được những tiến bộ và kinh nghiệm đáng kể, việc trang bị và xây cất cơ sở cùng căn cứ cũng được tiến hành.
Đêm 12/13 tháng 6, toán đột kích 26 người từ PTF 5 đổ bộ lên Cửa Khẩu (nằm ở phía Tây mũi Ròn), sử dụng SKZ 75 ly và súng máy bắn vô kho chứa và trại lính trong vòng 10 phút, Một vài tòa nhà bị hư hại. Không gặp sự chống trả từ phía địch. Bên ta vô sự.
Đêm 26/27 tháng 6, PTF 6 chở 7 Người nhái (toán phá hủy dưới nước_UDT) và 24 TQLC thi hành công tác phá hủy cây cầu trên quốc lộ số 1 trong khu vực Mũi Ròn. Toán TQLC có nhiệm vụ che chở cho toán người nhái đặt mìn phá hủy cầu. Kết quả cây cầu bị phá hủy, 2 lính giữ cầu bị bắn chết, 4 người khác bị toán đột kích bắn chết trên đường rút ra tàu. Bên ta vô sự.
Đêm 30/6 qua 1/7, PTF 5 đưa toán đổ bộ 23 người lên bờ với nhiệm vụ phá hủy trạm bơm nước ở Đồng Hới. Sau khi sử dụng SKZ 57 ly phá hủy trạm bơm, toán đổ bộ bị lính Bắc Việt bao vây. PTF 5 và 6 tiến vô gần bờ nhã đạn đại bác 20 và 40 ly vào lính Bắc Việt khiến chúng chùng lại, mở đường cho toán đổ bộ tháo chạy ra bờ biển dùng bè cao su chèo ra ngoài trở lên tàu. Kết quả 2 chiến sĩ chết bỏ lại xác, 1 bị thương, bỏ lại 3 SKZ 57 ly. Tổn thất về phía Bắc Việt 22 tên bị giết, nhà máy bơm nước bị phá hủy.
Tuy nhiên chuyến công tác ngày 15 tháng 7 tấn công đồn an ninh gần cửa Ròn bị hủy bỏ, hai chiến sĩ bỏ mạng.
Ngày 02/8/1964 xảy ra biến cố liên quan đến khu trục hạm HK Maddox (DD-731) và 3 ngư lôi đĩnh Bắc Việt, qua ngày 4/8 trong lúc khu trục hạm Maddox và Turner Joy đang đối phó với các ngư lôi đĩnh Bắc Việt, CINCPAC ra lệnh COMUSMACV ngưng thi hành kế hoạch OPLAN-34A.
Tháng 9/1964, PTF bắt đầu trở lại hoạt động ngoài Bắc, tuy nhiên chỉ thi hành công tác bắn phá các mục tiêu trên bờ.
Tháng 12/1964. TMT/Liên quân HK cho phép PTF trên đường trở về sau chuyến công tác đã được chỉ định được quyền bắn phá và quấy rối các mục tiêu đã được lựa chọn như Hòn Cọp, radar mũi Lay. Ngoài ra còn chấp thuận thêm một vài nhiệm vụ như bắt giữ ghe thuyền và chạm trán với tàu biển,
Trong năm 1964 tổn thất nhân mạng của LLHT là 2 chết, 2 bị bắt sống và 4 bị thương.
••• Biến cố Khu trục hạm Maddox (DD-731).
Đêm 30/31 tháng 7, Maddox thi hành nhiệm vụ tuần tiễu trong Vịnh Bắc Việt nhưng không được thông báo về hoạt động của PTF. Trong cùng thời gian, 2 PTF bắn đại bác 20 ly và đại liên vào mục tiêu đài radar và cơ sở quân sự trên Hòn Me. Đồng thời 2 PTF khác tấn công mục tiêu tương tự trên Hòn Ngư. Sau khi quan sát ngư lôi đĩnh rượt theo PTF tấn công Hòn Me, Maddox rời vùng.
Qua ngày 01/8, Maddox trở lại tuần tiễu.Sáng sớm ngày 02/08, nhân viên truyền tin trên Maddox bắt được tín hiệu báo cáo tàu Bắc Việt đang di chuyển, có thể dự định tấn công tàu Maddox.
Trên đài chỉ huy, HQ Đại tá John Herrick Chỉ huy Phân đội Khu trục hạm 192 lấy quyền chỉ huy (Hạm trưởng Maddox là HQ Trung tá Herbert L. Ogier) ra lệnh tàu hướng ra ngoài, hy vọng tránh đối đầu.
Tuy nhiên lúc 10:45H, ông đổi ý ra lệnh cho tàu quay trở vô bờ phía Bắc Hòn Me. Tình trạng thời tiết tốt, biển êm, trời trong sáng.
Lúc 1331H, Maddox phát hiện 3 PT Bắc Việt cách Hòn Me 10 hl về hướng Bắc.
Lúc 1516H, tình báo HK giải mã công điện của Bắc Việt cho biết 3 PT đang đến gần Maddox và sẽ sử dụng ngư lôi.
Lúc 15:40H, Maddox phát hiện 3 ngư lôi đĩnh Bắc Việt T-333, T-336 và T-339 (thuộc phân đội 135 gồm luôn 2 Swatow T-142 và T-146) tiến đến gần từ hướng Tây. Vị trí Maddox cách bờ biển 28 hải lý trong hải phận quốc tế.
Lo ngại chúng có thể tấn công, Herrick ra lệnh nhân viên ở các khẩu súng khai hỏa nếu 3 ngư lôi đĩnh tiến đến cách tàu 10,000 yards. Lúc 16:05 Maddox bẳn 3 quả đạn 127 ly cảnh cáo ngang qua tàu tiến đến gần nhất mang số T-336, tàu này phản pháo bằng cách phóng ra 1 trái ngư lôi rồi quay ngược lại. Chiếc thứ nhì mang số T-339 phóng ra 2 trái ngư lôi nhưng bị trúng đạn từ Maddox. Chiếc thứ nhất quay trở lại phóng trái ngư lôi thứ hai và nhã đạn 14,5 ly vô tàu nhưng Maddox phản pháo làm hư hại nặng chiếc này.
Vị trí Maddox lúc bị tấn công là 19°41’ 50” N và 106°35E.
Lúc này trên bầu trời 4 phi cơ F-8 Crusader từ hàng không mẫu hạm USS Ticondegora (CVA-14) bay đến yểm trợ. Thi hành lệnh “tấn công và tiêu hủy tàu địch” phi cơ bay lượn nhiều vòng nhã đạn vào các ngư lôi đĩnh. Hai chiếc đầu T-333 và T-336 mặc dù vận chuyển né tránh nhưng cũng bị thiệt hại nặng. Chiếc thứ ba T-339 bị trúng đạn cháy, nằm bất động trên mặt nước.
••• Biến cố Maddox và Turner Joy (DD-951)
Ngày 03/8, Maddox trở lại nhiệm vụ tuần tiễu trong công tác Desoto. Để chứng tỏ quyết tâm của HK và quyền hải hành trong lãnh hải quốc tế, Tổng thống Johnson ra lệnh khu trục hạm USS Turner Joy tham gia cùng Maddox tuần tiễu ngoài khơi bờ biển Bắc Việt.
Tối hôm đó, 3 PTF lại thi hành công tác tấn công trạm an ninh Cửa Ròn và địa điểm đài radar Vinh Sơn.
Sáng ngày 04/8, tình báo HK giải mã công điện bắt được cho biết Bắc Việt có ý định mở cuộc hành quân trên biển trong Vịnh Bắc Việt. Khác với hai ngày hôm trước, sấm sét và mưa lớn làm giảm tầm quan sát, biển động sóng cao đến 6 ft. Thêm vào đó hệ thống radar phát hiện phi cơ tầm xa trên Maddox và radar kiểm xạ trên Turner Joy không hoạt động. Đề phòng địch tấn công, đêm hôm đó Đại tá Herrick ra lênh tàu chạy ra ngoài xa. Tuy nhiên lúc 2040H Maddox báo cáo đang theo dõi một số tàu chưa xác định được, chúng đến từ mọi hướng. Hơn 3 tiếng đồng hồ sắp tới, hai chiến hạm nhiều lần vận chuyển với tốc độ cao để tránh tàu địch tấn công. Chiến hạm báo cáo địch phóng ra hơn 20 ngư lôi, nhìn thấy đường ngư lôi chạy, đèn phòng lái, đèn rọi sáng, nhìn thấy đối tượng trên radar và mặt biển. Để đối phó, Maddox và Turner Joy bắn tất cả 249 viên đại bác 127 ly, 123 viên đại bác 76,2 ly và 4 hay 5 đạn nổ dưới nước (Maddox trang bị 6 đại bác 127 ly, Turner Joy trang bị 3 đại bác 127 ly và 4 đại bác 76,2 ly).
Hạm trưởng Turner Joy và một số nhân viên chiến hạm quan sát thấy có một mục tiêu bị trúng đạn, cột khói dầy, màu đen bốc lên không có ngọn lửa (báo cáo diễn tiến của HQ Đại tá J.J. Herrick CHT Phân đội Khu trục hạm 192 ngày 13/8/1964).
Tuy nhiên sau đó phân tích dữ kiện nhận ra có sự báo cáo không chính xác từ chiến hạm. HQ Trung tá Stockdale phi công F-8 - người đã được phái đến tấn công P-4 hai ngày trước đó - bay đến yểm trợ, hơn 30 phút bay theo hướng chiến hạm vận chuyển với cao độ thấp (dưới 2.000ft) để tìm mục tiêu, ông báo cáo:
“Tôi đang ở vị trí tốt nhất để quan sát tình hình và tàu chúng ta đang bắn vào mục tiêu giả tưởng, không thấy chiếc PT nào … không có gì hết ngoại trừ màu nước biển đen thui và hỏa lực của chiến hạm HK.”
Ngày hôm sạu 5/8, Đại tá Herrick chất vấn thủy thủ đoàn và duyệt lại các sự kiện diễn ra trong vài giờ trước đó. Ông gởi công điện thượng khẩn về Honolulu bày tỏ sự nghi ngờ: "Duyệt xét cách thức báo cáo có nhiều đối vật và ngư lôi được phóng ra có vẻ nghi ngờ. Thời tiết bất thường ảnh hưởng lên radar và những thủy thủ thám xuất dò sonar (dụng cụ đo chiều sâu và phát hiện đối vật dưới nước) quá háo hức có thể đã đưa đến nhiều báo cáo. Maddox không phát hiện được đối vật nào bằng trực quan. Đề nghị đánh giá đầy đủ
Dù đã đọc qua tất cả các báo cáo trái ngược nhau trong đó báo cáo chứng minh là cuộc tấn công đã không xảy ra thuyết phục hơn, tuy nhiên-có lẽ để chứng tỏ quyết tâm của HK muốn trừng phạt Bắc Việt để trả đũa cho các hoạt động của VC ở miền Nam-cuối cùng McNamara chấp nhận là thực sự đã có cuộc tấn công nhắm vào Maddox và Turner Joy và đã thuyết phục Tổng thống Johnson đáp trả lại hành động gây hấn của Bắc Việt bằng cách ra lệnh cho phi cơ Hải và Không quân oanh tạc các mục tiêu quân sự.
- Năm 1965
Khởi đầu năm 1965 có 6 PTF và 3 PCF khiển dụng, trong năm được tăng cường thêm 4 chiếc nâng tổng số lên 10. Bình thường lúc nào cũng có 6 PTF và 2 PCF sẵn sàng công tác bất cứ lúc nào.
Trung bình 148 quân nhân hoặc dân sự người Việt và dân sự Trung Hoa thuộc toán đổ bộ lúc nào cũng ở trong tình trạng sẵn sàng và liên tục được huấn luyện suốt năm.
Có 49 công tác bắn phá các mục tiêu dọc duyên hải và 25 công tác tuyên truyền tâm lý chiến được xem như thành công. 13 lần phân phối gói quà (27.742 gói), radio (1.000 radio) và rãi truyền đơn (1.124.600 truyền đơn bắn từ súng cối 81 ly) đã được hoàn thành.
Các chuyến công tác thu thập tin tức tình báo và bắt giữ tù nhân được xem thành công khoảng 50%.
Tháng 6/1965 các chuyến công tác xâm nhập hoạt động trở lại, cho đến cuối năm thực hiện 16 lần có 6 lần tương đối thành công.
Tháng 10/1965 OPLAN-34A được tu chính cho phép PTF được quyền chận tàu thuyền dân sự hoạt động trên vĩ tuyến 17 để lên khám xét. Nếu tàu chở quân dụng sẽ bị đánh chìm, thủy thủ đoàn sẽ bị bắt giữ để khai thác
Tóm lại có 155 chuyến công tác thực hiện trong năm 1965, hầu hết thực hiện trong khu vực gần vĩ tuyến 20. Sở PVDH chịu tổn thất với PTF 4 bị mắc cạn, 1 chết và 18 bị thương.
Ngoài việc quấy rối sự vận chuyển trên biển của Bắc Việt và tạo ra ảnh hưởng tâm lý như mong muốn đối với dân chúng dọc theo duyên hải, các chuyến công tác còn ảnh hưởng đến chánh quyền Bắc Việt phải cung cấp nguồn lực để bảo vệ duyên hải.
- Năm 1966
PTF chỉ hoạt động 287 ngày trong năm 1966, hoạch định kế hoạch trở nên phức tạp vì có đến 6 PTF bị xóa sổ: ngày 7/03 một chiếc bị phi cơ Bắc Việt tấn công, ngày 22/5 hai chiếc lên cạn phải phá hủy trong lúc đang thi hành công tác CADO không thành công, ngày 17/06 một chiếc bị chìm do hải pháo tàu bạn vì ngộ nhận, ngày 19/08 một chiếc bị chìm sau khi đụng vào tàu bạn trong cơn bão.
Có 34 công tác CADO nhưng chỉ có 4 chuyến thành công với lý do thời tiết bất lợi, thiếu tình báo kịp thời, các trưởng toán hành động ngại giao chiến với địch, Bắc Việt tăng cường lực lượng và củng cố hệ thống phòng thủ duyên hải hữu hiệu hơn.
Ghi nhận đáng kể là các chuyến công tác thực hiện xa và thường xuyên hơn về hướng Bắc. Hơn 50% công tác hoạt động giữa vĩ tuyến 19 và 20.
Tổng cộng có 22 công tác bị lực lượng bảo vệ duyên hải từ bờ bắn ra. 5 chuyến bị phi cơ tấn công và 6 chuyến bị tàu tấn công.
Thiệt hại nhân mạng về phía ta: 15 chết, 31 bị thương và 6 mất tích.
- Năm 1967
Nhiệm vụ LLHT trong năm liên quan đến công tác ngăn chặn tàu thuyền, bắt giữ ngư phủ để khai thác tình báo và tâm lý và làm gián đoạn hoạt động trong khu vực duyên hải Bắc Việt.
Trước tháng 8, công tác PLOWMAN giới hạn đến vĩ tuyến 19-30N. Tháng 8/1967 vớ sự gia tăng yểm trợ của Đệ thất Hạm đội, CINCPAC tăng giới hạn đến vĩ tuyến 20N.
Đặc biệt trong năm 1967 có 5 chuyến công tác LOKI được chọn lựa vượt đến vĩ tuyến 20-30N (khu vực màu đỏ).
2/3 công tác hoạt động trong khu vực Xanh (Blue) và Trắng (White). Với 6 PTF hoạt động đúng ra phải thực hiện 27 chuyến mỗi tháng (16 chuyến mỗi lần 2 PTF và 11 chuyến mỗi lần 3 PTF) tuy nhiên chỉ có thể sắp đặt được 22 chuyến và thực tế chỉ thực hiện được 16 chuyến.
Có tất cả 151 công tác PLOWMAN, hoàn tất 125 chuyến, hủy bỏ 19 chuyến vì thời tiết, hủy bỏ 7 chuyến vì tình trạng kỹ thuật hoặc tổn thất nhân sự. Kết quả 1 tử trận, 1 mất tích và 3 bị thương.
Công tác CADO: thực hiện 12 lần, 6 lần có nhiệm vụ bắt tù binh, chỉ có một lần thành công nhưng tù nhân là ngư phủ nên không có giá trị gì cho tình báo. Ngoài ra 6 lần còn lại không vô đến bờ vì lý do súng từ bờ bắn ra, lính canh phát hiện, thời tiết khắc nghiệt.
Trong báo cáo hàng tháng, lúc nào Sở PVDH cũng sở hữu 7 PTF và 3 PCF, tuy nhiên thông thường có 1 PTF đại kỳ ở Subic Bay, do vậy chỉ có 6 PTF luôn ở trong tình trạng khiển dụng.
Có 12 thủy thủ đoàn PTF. Đầu năm có 4 toán hành động với 104 nhân viên đến cuối năm cắt giảm chỉ còn 3 toán với 69 người. Với cố gắng nâng cao phẩm chất toán hành động, CHT Sở PVDH sa thải 59 người thiếu khả năng trong đầu năm 1967.
- Năm 1968
Cơ quan NAD có tất cả 52 nhân viên (14 SQ, 29 đoàn viên và 9 dân sự người Phi). Toán yểm trợ lưu động HK có 65 người.
Trong năm 1968, trại giam ở Cù Lao Chàm (Paradise Island) dự trù sẽ chứa từ 150 đến 200 và thủ tục sẽ mất khoảng 2 tháng cho một tù nhân từ lúc vô cho đến lúc rời trại, mục tiêu đặt ra là mỗi tháng khoảng 100 tù nhân sẽ bị bắt giữ từ Bắc mang về trại giam.
Khoảng đầu năm 1968 công tác được chuyển từ ngăn chặn sự lưu thông trên biển qua yểm trợ công tác tâm lý chiến. Ngoài ra giới hạn LLHT không được phá hủy tàu đánh cá dài dưới 10m trừ khi xác định chúng có mang theo quân dụng hoặc chở số lượng bất thường thực phẩm hay hàng hóa.
Để thỏa mãn yêu cầu của Bắc Việt trước khi mở ra các cuộc đàm phán, ngày 31/03/1968 Tổng thổng Johnson ra lệnh hạn chế oanh tạc miền Bắc.
Ngày 3/4 JCS ra lệnh ngưng bắt giữ ngư phủ. Công tác tâm lý chiến sử dụng súng cối 81ly phân phối truyền đơn giới hạn dưới vĩ tuyến 20.
Ngày 6/4/1968, CINCPAC giới hạn truyền đơn chỉ được rãi đến vĩ tuyến 19.
Ngày 10/4 CINCPAC giới hạn chỉ được phát quà đến vĩ tuyến 19, hạn chế PTF chỉ được phép thi hành công tác thám sát duyên hải dưới vĩ tuyến 19 và bắt đầu công tác trả về Bắc những người bị tạm giữ.
Công tác xâm nhập và bắt giữ tù nhân (PLOWMAN): LLHT không được phép hoạt dộng quá vĩ tuyến 20. Hoạt động dưới vĩ tuyến 20 chỉ được phép ra lệnh ngừng, khám xét và tra hỏi tàu thuyền Bắc Việt, nhưng không được bắt giữ thủy thủ đoàn
Ngày 10/4 CINCPAC giới hạn các gói quà chỉ được phát đến vĩ tuyến 19 và các chuyến thám sát chỉ hoạt động đến vĩ tuyến 19.
Ngày 1/6 nới lỏng qui ước giao chiến, cho phép phá hủy tàu thuyền dưới vĩ tuyến 19 và CINCPAC có thể tự ý cho phép PTF thi hành các công tác xâm nhập Hòn Cọp.
Ngày 1/7 JCS sửa đổi lệnh giới hạn, cho phép PTF hoạt động lên đến vĩ tuyến 20 thi hành công tác ngăn chặn, thám sát và tra hỏi thủy thủ đoàn tàu thuyền. Ngoài ra PTF được quyền bắt giữ không quá 10 tù nhân một tuần để khai thác tình báo và phải trả họ về Bắc trong vòng 2 tuần. Trại giam tại Cù Lao Chàm không được giam giữ quá 20 tù nhân.
Ngày 22/10/1968, tù nhân cuối cùng rời trại giam trở về Bắc.
Ngày 1/11/1968, HK tuyên bố ngưng oanh tạc miền Bắc, tuân hành quyết định của Tổng thống Johnson, JCS đình chỉ công tác đưa PTF xâm nhập lãnh hải Bắc Việt, cùng lúc chỉ thị Sở PVDH đặt tất cả nhân viên, chiến đĩnh và cơ sở trong tình trạng sẵn sàng để có thể tiếp tục các công tác CADO, nếu được yêu cầu.
Sau ngày 1 tháng 11, các chương trình phát thanh và chuyển thư đến NVN vẫn được tiếp tục; tuy nhiên, việc phát truyền đơn, radio và quà tặng đã bị dừng lại.
Về phần Toán hành động, đầu năm có 3 toán với 69 người. Đến tháng 8 có 94 người tuy nhiên sau khi cứu xét giữ lại 60 người tổ chức thành 4 toán.
Tóm lại 10 tháng trong năm 1968 Sở PVDH tổ chức 157 công tác PLOWMAN, hủy bỏ 11 chuyến vì thời tiết, 6 chuyến vì tình trạng kỹ thuật, hoàn tất 140 chuyến (trong số này có 6 chuyến công tác đặc biệt)
chống lại Bắc Việt qua các nhiệm vụ như ngăn chặn trên biển, bắt giữ tù nhân và làm gián đoạn khu vực duyên hải Bắc Việt. Công tác ngăn chặn trên biển tiếp tục đạt được kết quả hữu hiệu nhất về số lượng tàu địch bị bắn chìm, số tù nhân bị bắt cũng như thu thập tình báo rất dồi dào.
Thời gian hoạt động trong năm 1968 là 300 ngày. Khả năng bảo trì xuất sắc của toán hỗn hợp Việt-Mỹ bảo đảm lúc nào cũng có 7 PTF trong tình trạng 100% sẵn sàng công tác. Tháng 8 và 9 là hai tháng đạt mức tột đĩnh trong công tác bảo trì với 33 và 25 chuyến công tác.
- khu vực hoạt động màu trắng từ vĩ độ 18°35’N đến 20°N mang lại nhiều kết quả nhất với 10 chuyến công tác ban ngày phá hủy 31 tàu và 3 chuyến công tác ban đêm phá hủy 4 tàu.
- khu vực trắng và xanh có rất nhiều hoạt động đánh cá quanh Hòn Mắt và hòn Niêu (18°50”N). Những chuyến tiếp tế và ghe trang bị vũ khí thường hoạt động ban đêm và gần bờ ngoài khả năng truy đuổi của PTF. Chỉ có 1 công tác thực hiện với 1 tàu Bắc Việt bị phá hủy.
- khu vực xanh lá thực hiện 2 công tác ban đêm, 3 tàu bị phá hủy.
- khu vực màu tím thực hiện 1 công tác ban đêm, 1 tàu bị phá hủy.
Khu vực màu trắng là nơi tập trung lực lượng phòng thủ duyên hải hùng hậu nhất, 58 chuyến PTF bị trúng đạn từ bờ bắn ra, Ngoài ra có 6 lần Bắc Việt sử dụng loại ghe võ bằng kim loại, trang bị vũ khí để chống lại PTF trong nhiệm vụ tuyên truyền cho Phong trào Gươm thiêng Ái quốc.
Ngày 6/10 phi cơ phản lực Bắc Việt lượn 2 vòng tấn công PTF nhưng không thành công.
Kết quả về phía địch có 80 người chết, 40 tàu bị phá hủy, 1 tàu bị tịch thu, 184 người bị bắt mang về Cù Lao Chàm, 210 ngườ trả về Bắc.
Về phía ta 6 người chết, 10 người bị thương.
Có 2 công tác xâm nhập Hòn Cọp trong năm 1968 nhưng không mang lại kết quả.
Kể từ 1/11/1968 ngưng tất cả các hoạt động của LLHT ở phía bắc 17-00N cho đến năm 1971.
- Năm 1969
Hoạt động LLHT bị ngưng lại do ảnh hưởng môi trường quân sự, chính trị mới đang diễn tiến và các cuộc đàm phán hòa bình Paris. Vấn đề này đã được CINCPAC duyệt xét trong tháng 11/1968 và đã đi đến kết luận là MACSOG nên duy trì nhân sự, cơ sở và trang bị của mình để tiếp tục hoạt động chống lại phương Bắc nếu có quyết định làm như vậy.
Giữa năm 1969, MAGSOG soạn thảo kế hoạch dự trù trong trường hợp HQHK triệt thoái lực lượng, HQVN vẫn còn khả năng thi hành chiến tranh không quy ước với 4 PTF, 2 Toán hành động mỗi toán 20 người và Lực lượng yểm trợ.
- Năm 1970
Không có hoạt động nào vượt quá vĩ tuyến 17.
- Năm 1971
Chiến dịch PARBOIL đã được dự trù với 5 công tác nhằm vào các mục tiêu khác nhau nhưng chỉ có 2 công tác được thi hành trong năm 1971.
••• HẢI CẢNG TỰ DO 1
- 10/02/1971, 3 PTF tuần tiễu ngoài khơi Quảng Khê bắn chìm 1 ghe chở hàng, 1 tàu võ sắt chuyên chở cận duyên (Hải Phòng TL-15), 1 tàu SL-4 hư hại, 1 ghe chở hàng hư hại nặng, tịch thu 3 kí lô tài liệu, bắt giữ 8 người.
- 19/02/1971, 4 PTF tuần tiễu từ Vinh đến Quảng Khê PTF bắn chìm 1 tàu chở hàng, 1 ngư lôi đĩnh P-4, 2 SO-1 hư hại nặng, 1 Shanghai-II hư hại nặng. Bên ta 1 người tử trận.
- 1 tháng 3/1971 HK hoàn tất thiết trí giàn phóng hỏa tiễn 122ly (mỗi giàn có 4 ống phóng) có tầm xa 11km của Nga trên mỗi PTF.
••• HẢI CẢNG TỰ DO 2
- ngày 23-24/12/1971: 4 PTF được lệnh sử dụng hòa tiễn 122 ly bắn phá Quảng Khê, tuy nhiên không thể thực hiện vì thời tiết xấu biển động mạnh.
- ngày 26-27/12/1971: 3 PTF được lệnh sử dụng hòa tiễn 122 ly bắn phá Quảng Khê và Đồng Hới, trong khi đến gần mục tiêu chiếc PTF chỉ huy động cơ bị trở ngại, 2 chiếc còn lại cố gắng thanh toán mục tiêu nhưng không thể thực hiện vì có sự hiện diện của tàu địch trong khu vực dự trù tác xạ.
- Năm 1972
PHẢN ỨNG CỦA BẮC VIỆT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ PHÒNG VỆ DUYÊN HẢI
••• Trước các hoạt động Tâm Lý chiến.
Dù không gây thiệt hại về vật chất và nhân mạng, nhưng các công tác này đã làm tăng mối quan tâm của chánh quyền CS miền Bắc về ảnh hưởng của các hoạt động này đối với tinh thần của nhân dân miền Bắc. Bằng chứng có được cho thấy các chương trình phát thanh được lắng nghe bởi giới quân nhân, cán bộ và các giới có học thức ở miền Bắc. Qua các lần tra hỏi tù nhân và hồi chánh viên ở miền Nam và Lào, họ cho biết là Cờ Đỏ và Gươm Thiêng Ái Quốc là hai chương thình phát thanh được nhiều người lắng nghe và phần đông họ bày tỏ sự tín nhiệm với hai đài này.
Về phân phối truyền đơn dường như có phần ảnh hưởng lớn trong dân đánh cá dọc theo khu vực duyên hải.
Trong năm 1968 có 18 bài viết và phát thanh của các cơ quan truyền thông chính thức miền Bắc chỉ trích gắt gao các hoạt động Tâm lý chiến của Sở PVDH. Ngoài ra còn công bố bộ luật mới nghiêm khắc hơn nhằm trừng phạt những người phản cách mạng và các cuộc tấn công tự sát của LLHT. Hà Nội bắt đầu nỗ lực lớn đã được hoạch định qua đài phát thanh Hà Nội và hội đàm Paris để ép buộc HK ngưng các công tác tuyên truyền.
••• Trước các hoạt động đặc biệt.
- Tình báo: mặc dù bị giới hạn phạm vi hoạt động nhưng đã mang lại tin tức tình báo có giá trị trung bình.
- Kinh tế: gây nên sự thiệt hại đáng kể về ngư nghiệp.
- Quân sự: Bắc Việt buộc phải gia tăng chi phí quốc phòng để bố trí lực lượng phòng thủ duyên hải.
Để chống trả các hoạt động của LLHT, quân đội Bắc Việt sử dụng các loại vũ khí khác nhau từ trọng pháo hạng nhẹ và súng cối đến đại bác hạng nặng (loại 130 ly và lớn hơn) với tầm xa đến 15 hải lý.
để yểm trợ an ninh duyên hải và cung cấp sự bảo vệ tối thiểu cho ngành đánh cá.
Những năm về sau, Bắc Việt thường xuyên sử dụng trọng pháo hơn để chống lại LLHT.
Khu vực Hòn Mắt, Hòn Niêu và Mũi Gà là các vị trí bắn ra nhiền nhất.
Để kết luận về ảnh hưởng của các hoạt động bí mật ngoài Bắc trong đó có hoạt động của Sở PVDH xin trích một đoạn trong bài báo sau đây:
“Báo New York Time, ngày 22/03/1968 có trích đăng từ AFP viện dẫn báo Nhân Dân tờ báo chính thức của Bắc Việt có phổ biến sắc lệnh thiết lập hình phạt lên đến tử hình cho những người phản cách mạng và các tội khác. Báo Nhân Dân viết là mặc dù những người phản cách mạng chỉ là một lực lượng nhỏ nhưng ‘âm mưu của họ rất qũy quyệt và hoạt động của họ rất nguy hiểm’.
Báo Nhân Dân cũng trích dẫn một số yếu tố đe dọa đến chế độ gồm có ‘các phần tử phản động khác và phá hoại thúc giục bởi đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ.’ Bài báo cũng viện dẫn các điệp viên và biệt kích do đế quốc Mỹ gởi ra miền Bắc.”
NHỮNG VẤN ĐỀ
Xin ghi nhận một vài nhận xét của HQ Trung tá Normal C. Olson, ông là Trưởng cơ quan Cố vấn HK (NAD) đối tác của Sở PVDH từ tháng 7/1967 đến 7/1968 trong tài liệu nghiên cứu tối mật 10/7/1970 của MACSOG.
Đối tác người Việt làm việc với tôi ở Đà Nẵng (CHT Sở PVDH lúc bấy giờ là HQ Trung tá Hồ-Văn Kỳ-Thoại) không có đại diện Hải quân ở Nha Kỹ thuật vì vậy không có người hiểu rõ vấn đề khi ông trình bày. Ông ấy liên tục chịu áp lực nặng nề.
Tuy nhiên, các nhân viên HQVN vẫn ở dưới quyền ông, ông có toàn quyền với họ, ông có thể yêu cầu BTL/HQ gởi thêm người nếu ông muốn. Ông có mối quan hệ thân thiết với TL/HQ. Vấn đề này Bộ binh không dính líu.
Tuy nhiên, đối với toán hành động, khởi đầu gồm các đơn vị biệt lập, về sau số người bị cắt giảm, chỉ còn lại 3 toán hỗn hợp đủ quân binh chủng.
Người chỉ huy trại toán hành động là Sĩ quan Bộ binh, người này thực sự không cộng tác với CHT Sở PVDH là một HQ Trung tá. Theo sơ đồ hệ thống chỉ huy ông giữ chức vụ Chỉ huy phó kiêm chỉ huy trưởng trại của toán hành động. Ông có đường dây liên lạc trực tiếp với người ở Nha Kỹ thuật ở Sài Gòn vì cả hai đều là SQ Bộ binh. Đây là một vấn đề. Bất cứ điều gì vị CHT muốn làm luôn luôn bị chặn lại, ông bị kềm hãm.
Có 11 thủy thủ đoàn hoàn toàn là người Việt. Nói về khả năng, họ khá tốt, một số thủy thủ đoàn đã để lại dấu ấn với tôi. Họ thật sự cứng cỏi và tôi nghĩ nhiều người trong đó muốn tự chính họ can dự vào cuộc chiến, nhưng họ bị hạn chế phần nào bởi những hạn chế do chúng tôi áp đặt, những gì chúng tôi có thể làm và không thể làm. Họ không thể tấn công loại tàu nào đó, chúng phải là loại đã được cho phép. Có nhiều giới hạn áp đặt lên họ. Hầu hết họ thực sự muốn ra ngoài Bắc để đánh nhau. Họ là những thủy thủ điều khiển con tàu xuất sắc. Tuy nhiên vấn đề bảo trì là một trở ngại. Một phần là do lỗi của chúng ta. Chúng ta thực sự chưa bao giờ đưa ra một kế hoạch bảo trì với cơ quan đối tác (Sở PVDH). Mặc dù chúng ta lựa chọn một số người gởi qua Subic Bay học về máy móc trong 6 tuần và khi họ trở về chúng ta lập ra Toán Yểm trợ Lưu động người Việt. Trong thời gian quá ngắn họ không thể nào hoạt động một cách thuần thục. Không thể nào so sánh một nhân viên cơ khí hạng nhất của HQVN với nhân viên đồng hạng của Mỹ là người đã có 16 năm kinh nghiệm về máy dầu cặn.
Tôi nghĩ là chúng ta đã mong đợi hơi quá nhiều từ người Việt Nam, nghĩ là họ nên thay thế chúng ta ngay lập tức. Chúng ta đã ở Phi Luật Tân từ những năm 1800 và khi đi qua đó sẽ thấy là họ không tiến xa hơn nhiều so với người Việt trong nhiều lĩnh vực. Tôi nghĩ đó vấn đề của thời gian. Chúng ta không đủ kiên nhẫn với họ, vì vậy kết luận nó là của chúng ta; chúng ta làm mất đi lý do vì sao chúng ta ở đó.
Từ khi bắt đầu các lần thuyết trình hành quân bằng tiếng Việt cho nhân viên người Việt , mối giao hảo giữa Mỹ-Việt cải tiến tốt hơn. Tôi nghĩ là trong việc giữ kín bí mật cho các chuyến công tác, chúng ta có xu hướng lạm dụng.
Nếu chúng ta gởi người ra Bắc thi hành nhiệm vụ, chúng ta phải tin họ. Chúng ta phải thành thật với họ ở mọi cấp, họ biết lúc nào chúng ta không thật. Họ không ngu muội.
Tôi nghĩ một trong các chìa khóa mang lại sự thành công là mối quan hệ đạt được với đối tác của tôi. Với người Đông Phương hơn bất cứ ai phải mất gần một năm, nhưng đến khi đạt được và đang làm việc tốt thì tôi phải đi nơi khác. Đối tác của tôi nói là trong đời hải nghiệp 14 năm, ông có tất cả 16 hay 17 đối tác và ông nói đùa là mỗi năm ông cứ phải hát lại bài hát cũ.
Dĩ nhiên là điều này đặt họ ở vị thế mà họ có thể lợi dụng người đối tác tiếp theo, vì những gì họ mất với người cố vấn trước họ sẽ cố gắng bắt người sau đó sẽ theo ý họ và phải mất 6 tháng để tìm ra những gì họ đang làm.
Có vấn đề căn bản là MACSOG tuyển mộ những người gọi là ái quốc và muốn họ trở thành lính đánh thuê. Khi chúng tôi đưa họ đi công tác và nếu họ không muốn thì họ lấy mũ nhà binh đội vô. Khi họ nhận ra chuyến công tác tốt có thể kiếm được nhiều tiền họ đội vào mũ lính đánh thuê. Tôi muốn đề cập cụ thể đến loại công tác đổ bộ lên bãi biển, trong trường hợp này người thi hành bắt buộc phải lên bờ, họ biết trước là mình có thể sẽ không trở ra. Họ cảm thấy không an tâm khi vào môi trường thù nghịch với số ít người, không yểm trợ, không ai giúp, không ai có thể gọi để mang họ ra.
Khi công tác ra Bắc dù phải lên bờ hay ở trên tàu họ vẫn lãnh lương như nhau.
Nói chung, tuyển mộ là một vấn đề. Trước hết, người điều khiển và thủy thủ vận chuyển con tàu là lính Hải quân. CHT Sở PVDH là sĩ quan Hải quân, tuy nhiên người tiền nhiệm của ông là Thiếu tá Bộ binh và đây có lẽ chính là nguồn gốc của nhiều vấn đề xảy ra trong vài năm trước đó. Trung tá Thoại có cách tuyển chọn nhân viên độc đáo, ông đưa ra nhiều cách thử thách và chính ông lựa người ông muốn.
Tuy nhiên tuyển mộ nhân viên cho toán hành động (CADO Team) là vấn đề khác. Hầu hết không phải là lính Hải quân, họ đến từ Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, dân sự hoặc tuyển mộ từ các nơi khác. Chúng tôi gặp khó khăn khi muốn điểm danh nhiều người đã ở trong đơn vị nhiều năm nhưng “làm ít-hưởng nhiều”.
Người chỉ huy toán hành động là SQ Bộ binh, ông ở đây khoảng 4 hay 5 năm, theo sơ đồ hệ thống chỉ huy ông giữ chức vụ Chỉ huy phó kiêm Chỉ huy trưởng trại của toán hành động.
Ông không muốn thay đổi, muốn giữ những người quen biết từ trước đến nay vì thế có xung đột giữa ông và CHT Sở PVDH là một HQ Trung tá.
Chính vì thế mà trong toán hành động chỉ có khoảng 50% hoạt động hữu hiệu.
Về công tác bắt giữ tù nhân để khai thác tin tức tình báo. Con số tù nhân bị bắt không thành vấn đề. Nếu họ muốn mang về 100 người, chúng tôi có thể mang về cho họ 100 người bất cứ lúc nào, nhưng mang ai? Cuối cùng chúng tôi đặt tiêu chuẩn để lựa chọn, bắt đầu tra hỏi tại chỗ để lựa người. Chọn người có học thức? Không kiếm được trong giới ngư phủ. Chọn người hiểu biết, thí dụ người ở trong quân đội? Ít khi tìm được. Chọn người trẻ tuổi, người khỏe mạnh. Chúng tôi mang họ về Nam.
Kết quả gởi về cho biết công tác mang lại kết quả, nhưng thành công đến mức nào, tôi không biết. Có lần vị Hạm trưởng PTF được lịnh mang về càng nhiều càng tốt, lần đó ông mang về 130 tù nhân. Con số không phải là câu trả lời, vì thế tôi không tin là sẽ chứng minh được sự thành công với loại công tác này. Nếu muốn đo lường thống kê về số ghe bị PTF bắn, tốt.”
HOẠT ĐỘNG Ở MIỀN NAM
Giảm công tác ở miền Bắc đưa đến giảm bớt tiền thưởng từ đó mang lại sự bất mãn và gia tăng vắng mặt không phép. Như là giải pháp tạm bợ, nhân viên toán hành động được sử dụng để tăng cường ở vị trí các ổ súng trên PTF.
Tháng 9/1966 các toán hành động được gởi tham gia các cuộc hành quân được tổ chức ở Vùng 1 Duyên hải có cố vấn HK tháp tùng để quan sát cách thức thi hành của toán khi tham dự hành quân trong môi trường khác biệt.
••• Từ tháng 10/1967 đến tháng 3/1968
- chiến dịch Đồng Tâm: thời gian này với gió mùa Đông Bắc, biển động mạnh, toán hành động được sử dụng trong khu vực sông ngòi, đồng bằng Vùng 4 Sông ngòi qua với kết quả như sau:
Về phía VC: 22 chết, 34 bị bắt.
Về phía ta: 1 chết, 5 bị thương (2 HK, 3 VN)
••• Năm 1968
- Tháng 5/1968 chiến dịch BIFROST bắt đầu ở Vùng I. Ngày 1/11/1968 2 toán hành động biệt phái cho chiến dịch DEWEY RIFLE ở Vùng II.
Tương tự như các công tác CADO nhưng lần này mục tiêu là các cơ sở hạ tầng của VC và lính VC lẫn CSBV.
- Hành quân sông ngòi: một toán hành động được biệt phái cho hải quân HK để hoạt động với lực lượng sông ngòi ở vùng đồng bằng thu hoạch được kết quả đáng kể và đã bắt sống một cán bộ tình báo cao cấp của VC.
••• Năm 1969: với 58 cuộc hành quân BIFROST tại Vùng I tính đến ngày 2/6/1969 mang lại kết quả 84 VC chết, 4 bị thương, 34 bị bắt sống, phá hủy 9 ghe hay phà, 3 bunker, 7000 lbs gạo, nhiều tài liệu, vũ khí và vật dụng chiến tranh bị tịch thu hay phá hủy. Toán hành động có 5 chết và 9 bị thương, không có thiệt hại về phía HK.
Hành quân DEWEY RIFLE trong tháng 2 tại Vùng II trong khu vực ranh giới Phan Thiết và mật khu Lê Hồng Phong. PTF được sử dụng để yểm trợ hải pháo chứng tỏ rất hữu hiệu.
Ngày 3/6/1969 hành quân BIFROST đổi tên là DODGE MARK, từ 3/6/1969 đến 20/7/1969, 15 cuộc hành quân do các toán hành động thực hiện không có cố vấn, kết quả 2 VC chết, 1 bị thương và 1 bị bắt sống.
••• Từ 01/01/1971 đến 30/4/1972, tổng cộng 97 cuộc hành quân Dodge Mark đã được tổ chức ở miền Nam. Mục đích đặt Sở PVDH luôn luôn ở trong tình trạng sẵn sàng cho các công tác ngoài Bắc khi cần.
Kết quả: 20 VC chết, 42 VC bị bắt sống.
Ngoài ra còn một số cuộc hành quân đột kích trải dài từ Cửa Việt, Quảng Trị, Thừa Thiên, Hội an, Đầm Dơi, Sông Ông Đốc sử dụng các toán Biệt hải và Hải kích mang lại kết quả 9 VC chết, 11 tên bị bắt sống, tịch thu mội số tài liệu, vũ khí và tiếp cừu 2 phi công Mỹ ở Cam Lộ, Quảng Trị. Phía ta 1 bị thương.
Đặc biệt hành quân Bạch Đằng từ 13-27 tháng 3/1972 ở khu vực Thới Bình, Sông Ông Đốc và Đầm Dơi thuộc tỉnh An Xuyên. Trong cuộc hành quân này soạn thảo kế hoạch, phối hợp và kiểm soát đều do Sở PVDH đảm nhận. Ba toán Biệt hải trên trợ chiến hạm Mỹ Tho _HQ 800 được đưa lên bờ thi hành công tác thám sát để xác định mục tiêu yểm trợ Sư đoàn 21BB.
Sự thành công của hành quân Bạch Đằng đã chứng tỏ khả năng của Sở PVDH hoạt động phối hợp với các đơn vị khác của Bộ binh và yểm trợ hành quân trên bộ mà không có sợ yểm trợ của HK.
GIAI ĐOẠN CHUYỂN GIAO
Sở PVDH bắt đầu năm 1971 với 7 PTF và 3 PCF.
Tháng 5/1971, trách nhiệm soạn thảo kế hoạch và thực hiện công tác được giao phó cho Sở PVDH. Tháng 7/1971, sau khi đã được huấn luyện và chuẩn bị đầy đủ, Sở PVDH tiếp nhận trách nhiệm yểm trợ tiếp vận. Tính đến 01/8/1971 số nhân viên thuộc Sở PVDH là 341 người.
Ngày 22 tháng 10/1971, trận bão Hester tàn phá Đà Nẵng gây thiệt hại nặng cho doanh trại và chiến đĩnh Sở PVDH. Trong số 105 tòa nhà, 9 bị phá sập và 30 bị hư hại, tất cả đã được sửa chửa trước khi bàn giao.
Về phần chiến đĩnh, PTF 6, 12, LCM-3, PCF 3 và 1 tàu phục vụ (Utility Boat) 40 ft bị chìm tại cầu tàu. PTF và PCF được vớt lên mang về Subic Bay sửa chửa.
Ngày 22/10/1971, COMUSMACV đề nghị thu hồi chỉ thị Sở PVDH duy trì khả năng thực hiện công tác ngoài Bắc và được quyền giao lại 7 PTF cho HQHK trước ngày 31/12/1971. Ngày 5/11, CINCPAC đồng ý.
Ngày 7/01/1972 lúc 10:00H, tổ chức lễ chuyển giao các doanh trại như Spanish Beach, Coral Beach, Upper Base, Lower Base và trại lính Nùng cho Sở PVDH, ngoại trừ Camp Fay được giữ lại để cố vấn HK trong khu vực Đà Nẵng sử dụng.
Ngày 10/01/1972, CINCPAC lần nữa yêu cầu ngay lập tức giao lại 7 PTF cho HQHK. TL/Hạm đội HK ở Thái Bình Dương đồng ý nhưng lưu ý là có 2 chiếc đang sửa chửa ở Subic Bay.
Công điện ngày 30/03/1972 của JCS và ngày 31/03/1972 của CINCPAC cho phép MACVSOG giao lại PTF cho HQHK.
NAD ngưng hoạt động ngày 20/04/1972 để chuẩn bị bàn giao xưởng và cơ sở cho HQHK
Ngày 28/04/1972 (30/04/1972) MACSOG-31 hay NAD bị giải tán.
Ngày 01/5/1972, HQHK chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng 7 PTF và 3 PCF; mang về 7 PTF. 1 PCF, 1 cần trục nổi, 1 LCM-3 và 1 tàu dịch vụ; giao lại 1 LCM-3 dùng để đẩy cho Sở PVDH, cho HQVN mượn lại 2 PCF trong thời hạn 6 tháng.
Mặc dù HK đã dự trù kế hoạch sau khi rút lui Sở PVDH sẽ tự hoạt động với 4 PTF loại Nasty, 2 toán hành động 20 người mỗi toán và lực lượng yểm trợ, tuy nhiên không tìm thấy bằng cớ nào chứng tỏ Nha Kỹ thuật và Bộ TTM đã cố gắng tranh đấu để giữ lại phần của mình.
Nếu còn PTF, trong trận hải chiến Hoàng Sa, HQVNCH sẽ chiến đấu hữu hiệu hơn!
BIỆT HẢI
Năm 1968 chỉ có vài lần đột kích lên bờ, từ năm 1969 cho đến khi giải tán không còn công tác đưa người lên bờ. Cùng lúc các lớp huấn luyện vẫn tiếp tục, quân số Biệt hải gia tăng, ngày 6 tháng 9 năm 1969, một đại đội Biệt hải 100 người đến Sea Float trên HQ 403 thay thế cho 228 Lực lượng Đặc biệt lên CH-47 trở về Nha Trang. Tài liệu HK dịch Biệt Hải là Naval Rangers, Sea Commando (SC) hoặc VNN Special Forces.
Từ khi biệt phái xuống Năm Căn, Biệt hải thường xuyên hoạt động ngăn chặn các đường tiếp tế của VC và thám sát các vị trí phòng thủ của địch trong khu vực Năm Căn.
Điển hình trưa ngày 17/02/1971, toán Biệt hải 10 người đã chạm trán dữ dội với VC. Sau khi phá hủy 8 cái bẫy và tuần tiễu ngang bãi mìn, toán Biệt hải bắt gặp một hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn cách căn cứ 9 km về hướng Đông Nam (vị trí WQ 072 662), lúc bấy giờ 2 VC đang nằm trong bunker và một tên khác hình như đang ngũ trên chiếc võng., Biệt hải nổ súng giết chết cả 3 tên. Ngay sau đó khoảng 30 tên VC núp bên trong bunker phản pháo bằng vũ khí đủ loại như B-40 và súng không giật. Trưởng toán Biệt hải Trung úy Trần (LTG:chỉ có họ, không biết tên) tử trận ngay tại chỗ, 2 Biệt hải bị thương. Ngoài ra một Biệt hải ném lựu đạn vô bunker giết thêm 2 VC. Hai bên cận chiến trong vòng 20 phút cho đến khi toán Biệt hải rút lui. Tiếp theo trực thăng đến tải thương. trực thăng Sea Wolf, phi cơ OV-10 bay đến và trọng pháo của Tiểu đoàn 44 BĐQ tác xạ tàn phá cứ điểm của địch. Sau khi chấm dứt pháo kích, giang đĩnh Giang đoàn 41 và 44NC chở Biệt hải và Biệt động quân đến vị trí đụng độ. Trên đường di chuyển VC phục kích bằng các loại súng nhỏ nhưng không gây thiệt hại. Toán quân đến vị trí bunker không gặp bất cứ phản ứng nào từ phía địch. Tuy nhiên một alpha án ngữ phía ngoài gần con kinh đã bị VC bắn B-40 hư hại nhẹ, thủy thủ đoàn phản ứng 1 VC bị bắn chết.
Ngày 16/01/74: lúc 21:30H, HQ 4 rời Đà Nẵng, chở theo 27 Biệt hải.
Ngày 18/01/74: lúc 22:35H, Chỉ huy phó Sở Phòng vệ Duyên hải và 15 Biệt hải tháp tùng HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh rời Đà Nẵng ra Hoàng Sa. Một Biệt hải hy sinh trên HQ 4 trong lúc giao chiến.
Vài dòng nhận xét cá nhân.
Cá nhân tôi đã có hai lần trực tiếp liên hệ đến Biệt Hải:
1.- Trong thời gian ở Năm Căn, PCF của Hải đội 5 DP mỗi đêm thường chở theo toán Biệt hải lên kích trên bờ. Tháng 9/1970 khi toán PCF đầu tiên của HĐ5DP xuống Năm Căn, tôi là thuyền trưởng chiếc 3907 đã có một vài lần PCF của tôi chở toán Biệt hải đi kích, khi đến vị trí họ nhảy lên bờ, PCF nằm kích tại chỗ, sáng hôm sau họ trở về tàu.
2.- Khoảng đầu năm 1972, tôi ra Đà Nẵng nhận chiếc Tuần duyên đĩnh HQ 702 của HĐ3DP biệt phái HĐ1 sau trận bão Hester thay thế người bạn cùng khóa (HQ Trung úy Lê Kim Kình). Có lần tôi được lịnh chở HQ Trung úy Lê Bá Chư (k.18/NT) vô TTHL/HQ/NT để học khóa huấn luyện về Đài kiểm báo (khoảng 1 tháng sau Chư về nhận ĐKB 101 Cù Lao Ré), đồng thời chở luôn toán Biệt hải công tác Quảng Ngãi, khi đến ngang căn cứ, ghe Duyên đoàn 16 chạy ra chở Biệt hải vô bờ.
3.- Lúc tôi ở Năm Căn, ngoài Biệt hải còn có toán Người Nhái (SEAL_Hải kích) do HQ Trung úy Vũ Trọng Sơn bạn cùng khóa làm Trưởng toán.
Người Nhái khác biệt với Biệt hải ở điểm là toán Người nhái họ có phương tiện riêng biệt như Skimmer, STAB để sử dụng khi thi hành công tác đặc biệt. Hành quân hỗn hợp, sử dụng phương tiện được cung cấp.
ÂN THƯỞNG HUY CHƯƠNG CHO SỞ PHÒNG VỆ DUYÊN HẢI
1.- Qua những chiến tích lớn lao đã đạt được, Sở PVDH được 2 lần tuyên dương công trạng trước Quân Ðội, được ân thưởng 2 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu và đơn vị được mang dây Biểu Chương mầu Anh Dũng Bội Tinh. Ngoài ra, năm 1967, Sở PVDH cũng được BTL Hải Quân Hoa Kỳ ân thưởng 1 huy chương “MERITORIOUS SERVICE”. (http://nhayduwdc.org/nkt/bv/2018/b018/ndwdc_nktbv2018_nkt018_tomluocsuhinhthanhNKT_2018JUN12_tue.htm)
2.- Trong bản tuyên dương công trạng ân thưởng huy chương Tuyên dương Đơn vị cho cơ quan SOG của Tổng thống HK (THE PRESIDENTIAL UNIT CITATION) có đề cập đến chiến công của Sở PVDH:
“lực lượng trên biển của Hải quân Việt Nam đã dũng cảm đột kích duyên hải Bắc Việt và giành chiến thắng trước Hải quân Bắc Việt.”
____________________________
Tham khảo:
Comments
Post a Comment